Làn da gặp các vấn đề khiến chúng ta phải tìm đến sự trợ giúp của các thành phần, hoạt chất có khả năng kháng viêm, diệt khuẩn từ các loại thuốc uống, bôi. Tuy nhiên, sử dụng thuốc điều trị có thế gây nên những bất lợi cho da cũng như sức khỏe nếu không được tư vấn và chỉ định rõ ràng. Dưới đây là các nguyên nhân gây ra các bệnh da liễu khi dùng thuốc điều trị
Thuốc và các bệnh da liễu thường gặp
Mụn
Mụn là bệnh da liễu dễ gặp phải khi bạn sử dụng thuốc điều trị, đặc biệt là các liều cao, mạnh. Một số loại thuốc có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng mụn. Hormone tuyến yên, corticoid, nội tiết tố ở nữ, thuốc tránh thai, một số thuốc tác động trên thần kinh, động kinh là một trong những thuốc thường xuyên gây ra mụn.
Rối loại về sắc tố da
Một loại bệnh da liễu khác cũng thường gặp phải, đó chính là: Thay đổi màu da do thuốc. Đây có thể là kết quả của tăng hoặc giảm tổng hợp melanin hoặc lắng đọng sắc tố trên da do những thuốc: màu xám, xám xanh, nâu, vàng. Đôi khi bản chất chính của các sắc tố là không rõ ràng. Những sự thay đối sắc tố có thể là lan tỏa hoặc khu trú
Rối loạn sắc tố da, da sạm, xám, vàng hơn khi sử dụng thuốc điều trị nặng.
Ví dụ: Sự hình thành vệt màu nâu trên da do thay đổi sắc tố sau thời gian dùng thuốc chống động kinh trên vùng da thường tiếp xúc với ánh sáng xảy ra ở khoảng 10% bệnh nhân và phục nữ có nhiều khả năng bị ảnh hưởng hơn. Rối loạn sắc tố này chủ yếu xảy ra trên mặt, cổ và cánh tay.
Thay đổi sắc tố phát triển trong khoảng 25% số bệnh nhân dùng thuốc chống sốt rét trong hơn 3 hoặc 4 tháng. Ống quyển và khu vực trước xương chày thường bị ảnh hưởng nhiều nhất. Các vết sắc tố lắng đọng có màu sắc thay đổi từ màu xám đến xanh – đen. Tăng sắc tố sau khi sử dụng lâu dài cũng được báo cáo trên sử dụng kháng sinh và thuốc trị trầm cảm.
Sự tăng nhạy cảm với ánh sáng
Đây là tình trạng da tăng phản ứng với ánh sáng mặt trời khi chiều xạ ở liều bình thường – bệnh da liễu này được biết như là sự bắt nắng nhanh khi tiếp xúc với mặt trời. Tác dụng này xảy ra có thể do việc sử dụng các loại thuốc dùng tại chỗ hay toàn thân. Một số thuốc gây ra tác dụng này bao gồm: thuốc chống loạn nhịp, NSAID, thuốc an thần, vitamin A, kháng sinh, một số thuốc lợi niệu.
Da nhạy cảm hơn khi sử dụng các loại thuốc bôi bên ngoài, da dễ bị cháy nắng hơn.
Phản ứng nhạy cảm với ánh sáng rất phổ biến và có thể xuất hiện ở hầu hết các cá nhân dùng liều cao. Sự tăng nhạy cảm với ánh sáng thường xảy ra trong vòng 5-20 giờ tiếp xúc với các biểu hiện như cháy nắng, ban đỏ, phù nề, phồng rộp, bong vảy. Biểu hiện khác của sự tăng nhạy cảm ánh sáng có thể là sự tăng sắc tố trên vùng bị kích ứng. Một số kháng sinh liên quan đến phản ứng này
Rối loại về móng
Ngoài bệnh da liễu, thuốc còn làm thay đổi móng, “điều kiện” thay đổi rất đa dạng, xuất hiện trong một vài tuần dùng thuốc. Vấn đề móng tay có thể không có triệu chứng, đau đớn hay suy giảm chức năng. Các rối loại này thường hồi phục khi ngừng thuốc. Móng tay có các bất thường bao gồm xuất hiện các bậc ngang trên móng, móng tay giòn, biến dạng,…
Cơ chế ảnh hưởng của thuốc vẫn chưa được xác định rõ nhưng hầu hết các trường hợp đều được nghĩ liên quan đến tác dụng độc hại của thuốc trên biểu mô móng. Một số yếu tố có thể lắng đọng ở móng, dẫn đến móng tay thay đổi màu, giảm tươi máu, gây hoại tử móng. Một số loại thuốc có thể gây rối loạn móng là loại thuốc trầm cảm, loạn thần, kháng sinh, vitamin A,… là nguyên nhân gây tình trạng này
Một số loại thuốc ảnh hưởng đến biểu hiện da
Corticoid
Việc sử dụng Corticoid có thể gây ra hoặc làm trầm trọng tình trạng mụn, bằng chứng là thường xảy ra ở bệnh nhân có hội chứng Cushing. Điều trị Corticoid toàn thân, tại chỗ hay đường hít đều có thể gây ra sự hình thành mụn. Corticoid gây ra các vấn đề về da bao gồm các nốt viêm, mụn mủ có sự đồng nhất về kích thước cũng với ít hoặc không có mụn trứng cá.
Tác dụng chống viêm của Corticoid ban đầu có thể ngăn chặn các nốt viêm, mụn mủ, giảm đỏ da. Tuy nhiên, khi ngưng sử dụng có thể gây ra sự bùng phát các tình trạng trên, cũng là nguyên nhân gây hàng loạt các bệnh da liễu khó điều trị.
Da bị nhiễm Corticoid tạo sự bùng phát mụn mủ, viêm da khó điều trị sau khi ngừng sử dụng
Hấp thụ qua da của Corticoid sau khi bôi khác nhau giữa các cá nhân, thành phần công thức và vị trí giải phẫu. Vị trí háng, cổ và mặt có khả năng hấp thụ nhiều Corticoid tại chỗ gây nhiều tác dụng phụ. Yếu tố ảnh hưởng đến hấp thụ qua da là độ dày của lớp sừng và thành phần lipid. Da mặt là nơi có khả năng thẩm thấu tốt hơn do có lớp sừng mỏng và có sự phân bổ của nhiều tuyến bã nhờn. Đối với vùng da tổn thương trong viêm da dị ứng thì sự thâm nhập của Corticoid có thể lớn hơn gấp 2-10 lần.
Tổn thương mụn do Corticoid gây ra và mụn thông thường khác nhau dựa trên đánh giá mô học. Trong mụn thông thường, quan sát thấy Keratin bất thường của biếu mô tuyến bã.
Đối với sự bùng phát mụn do việc sử dụng Corticoid chủ yếu là nốt sần và mụn mủ. Trong mụn thông thường, các tổn thương chính là mụn trứng cá.
Tuy nhiên, mụn trứng cá có thể có mặt trong sử dụng corticoid. Sử dụng corticoid tại chỗ dẫn đến tăng nồng độ của acid béo tự do trong lipid bề mặt da và tăng số lượng vi khuẩn ống tiết bã nhờn. Đây là những yếu tố thúc đẩy hình thành mụn trên da.
Để giảm thiểu rủi ro, nên sử dụng corticoid trong thời gian ngắn, trong khi vẫn duy trì hiệu quả mà không gây các các bệnh da liễu không mong muốn. Các tác dụng phụ thường gặp nhất của corticoid dùng ngoài là teo da.
Tất cả corticoid tại chỗ có thể gây teo da, mỏng da, nguy cơ cao hơn ở người lớn tuổi. Mặt, mu bàn tay và các khu vực bị hăm đặc biệt nhạy cảm hơn. Sử dụng tretinoin bôi có thể giảm tỷ lệ teo do corticoid. Tác dụng phụ khác từ corticoid tại chỗ cũng bao gồm tao da vĩnh viễn, giảm mao mạch.
Corticoid tại chỗ cũng có thể gây ra bệnh Rosacea với các biểu hiện ban đỏ, nổ sần và mụn mủ. Nếu các triệu chứng tái phát và hiệu lực corticoid tăng lên, bệnh đỏ bừng mặt trở nên dai dẳng thì nên chắm dứt việc dùng corticoid. Điều này có thể sau đó gây ra các cơn bộc phát ban đỏ nặng và mụn viêm.
Việc sử dụng corticoid bôi trên da có thể dẫn đến giảm sắc tố, rõ ràng hơn trên nhũng da tối nhưng có thể xảy ra ở tất cả các loại da. Sự phục hồi lại sắc tố da thường xảy ra sau khi ngưng sử dụng corticoid. Corticoid có thể xảy ra ở bệnh viêm da tiếp xúc trong 1 số ít bệnh nhân.
Xem thêm: Tác hại khi sử dụng kem dưỡng trắng da cấp tốc
Thuốc chữa nội tiết tố nữ
Điều chỉnh và cân bằng nội tiết tố, thuốc chữa nội tiết cũng có thể gây nên nhiều bệnh da liễu. Khi nói đến các kích thích tố phổ biến, estrogen là một trong những hormone được đề cập đến nhiều nhất. Đây là hormone chủ yếu được tiết ra ở buồng trứng, nhưng nó cũng được tìm thấy ở nam giới và được tiết ra bởi các mô khác nhau, được sử dụng trong thành phần của thuốc ngừa thai, liệu pháp hormone thay thế, điều trị loãng xương,…
Ở phụ nữ, estrogen được tạo ra bằng cách chuyển đổi các kích thích tố nam, được gọi chung là androgen thành estrogen. Và các nội tiết tố androgen ban đầu được bắt nguồn từ cholesterol – steroid. Quá trình chuyển đổi từ cholesterol thành estrogen hoặc từ androgen thành estrogen được thực hiện thông quá các hoạt động của một nhóm các enzyme nhất định. Da có rất nhiều các chức năng khác nhau, trong da cũng có các thành phần cần thiết để sản xuất cholesterol và tổng hợp các steroid sinh dục.
Thuốc chữa nội tiết ảnh hưởng độ ẩm và độ căng bóng của da
Trong da, estrogen ảnh hưởng đến độ dày, sự hình thành nếp nhăn và độ ẩm cho da. Estrogen có thể gia tăng các glycosaminoglycans để duy trì sự cân bằng chất lỏng và kết cấu tế bào. Estrogen cũng có thể làm tăng sản xuất collagen trong da, duy trì độ dày biểu bì, độ ẩm và giữ da căng mịn.
Trong thời gian hoạt động của nội tiết tố cao, như mang thai hoặc dùng một số thuốc tránh thai có thể làm nám da trầm trọng hơn trong khu vực tiếp xúc ánh nắng như trán, mũi và má do hormone ảnh hưởng đến sắc tố da. Bên cạnh các tác động lên da, estrogen cũng có thể làm cho tóc mọc dài và khỏe mạnh. Trông thời gian mang thai, phụ nữ thường bị tăng trưởng tóc kéo dài. Việc giảm mạnh estrogen sau khi sinh và mức độ estrogen trong giai đoạn mãn kinh gây ra loãng xương và rụng tóc.
Về bản chất, estroegn giúp da và tóc khỏe mạnh hơn. Tất nhiên, với tuổi dậy thì, kinh nguyệt và mãn kinh, progesterone cũng giữ vai trò quan trọng nhất định. Tuy nhiên, các nghiên cứu vẫn còn rất ít trong lĩnh vực này. Nghiên cứu trong tương lai hi vọng sẽ làm sang tỏ về sự tương tác giữa estrogen và progesterone, để hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng trên da và tóc.
Tham khảo thêm: Mụn nội tiết là gì?
Thuốc ngừa thai hỗn hợp 2 loại nội tiết tố
Một số phụ nữ giai đoạn trước kinh nguyệt bùng phát mụn trứng cá là do hormone thay đổi trong chu kỳ. Ở một số người mụn trứng cá tồn tại qua nhiều năm, thậm chí sau khi mãn kinh. Mụn được kích hoạt bởi sự sản xuất bã nhờn dư thừa. Bã nhờn là một loại dầu được bài tiết bởi các tuyến trong da.
Cùng với các tế bào da, bã nhờn có thể làm tắc nghẽn lỗ chân lông và thúc đẩy sự tăng trưởng của vi khuẩn, góp phần gây ra mụn. Androgen, một nhóm các hormone trong đó bao gồm testosterone, kích thích da sản xuất bã nhờn. Buồng trứng của người phụ nữ và tuyến thượng thận thường sản xuất một mức độ thấp nội tiết tố androgen.
Mức độ cao hơn của androgen có thể dẫn đến bã nhờn dư thừa. Dùng thuốc ngừa thai có chứa cả estrogen và progestrone làm giảm lượng androgen trong cơ thể. Điều này dẫn đến ít bã nhờn và mụn trứng cá hơn, cải thiện tình trạng của các bệnh da liễu liên quan đến mụn.
Đối với sự thay đổi nội tiết tố do hormone gây ra các loại mụn như mụn trứng cá
Hormone sinh dục nam
Testosterone là hormone sinh dục nam giữ vai trò chính trong những biểu hiện ở nam giới. Thuốc chữa testosterone được dùng trong điều trị chứng suy sinh dục ở nam giới. Tóc thô, da dày và nhờn là dấu hiệu của lão hóa da do testosterone. Nồng độ androgen tăng cao là nguyên nhân phổ biến nhất gây rụng tóc và hói đầu.
Điều này xảy ra khi tỷ lệ estrogen và testosterone trở nên không cân bằng, cụ thể là sau thời kỳ mãn kinh. Testosterone tham gia vào sản xuất bã nhờn trên da, dẫn đến tăng Keratin hóa, hình thành mụn trứng cá. Liều lượng testosterone cao các chất liên quan có thể làm tăng lipid bề mặt da, cholesterol và nồng độ acid béo tự do.
Phụ nữ có thể gặp sự tăng tiết bã nhờn hoặc mụn khi có sự mất cân bằng hormone. Những ảnh hưởng của nội tiết tố nam trên da rất quan trọng ở cả nam lẫn nữ vì đều có sự thay đổi nhất định về nồng độ androgen.
Nồng độ androgen tăng cao là nguyên nhân phổ biến nhất gây rụng tóc và hói đầu
Hormone tuyến giáp (T3/T4)
Các loại thuốc có hoạt tính tương tự được dùng trong điều trị nhược giáp. Tuyến giáp là một tuyến nhỏ hình bướm. Tuyến giáp sản xuất 2 loại hormone ảnh hưởng đến sự trao đổi chất, sự phát triển trí não, hơi thở, nhiệt độ cơ thể, sức mạnh cơ bắp, sức khỏe của xương, da khô, chu kỳ kinh nguyệt, trọng lượng và mức cholesterol.
Sự cân bằng là quan trọng khi nói đến những hormone tuyến giáp, da có thể trở nên nóng, tăng tiết mồ hôi và đỏ ửng. Sự giảm tiết làm da trở nên kho, thô, dày và giảm tiết mồ hôi. Rối loạn chức năng tuyến giáp cũng có thể dẫn đến tóc mảnh và rụng.
Những biến cố bất lợi của các thuốc dùng trong điều trị thẩm mỹ
Tác dụng phụ khi sử dụng Vitamin A
Vitamin A đóng một vai trò quan trọng trong việc cân bằng nội bộ của các biểu mô khác nhau (bao gồm biểu bì) và giữ vai trò quan trọng cho việc duy trì độ tăng trưởng bình thường, sự biệt hóa tế bào. Vì vậy, Vitamin A được sử dụng trong điều trị một số bệnh da liễu như vẩy nến, tăng sừng, mụn, lão hóa sớm, tổn thương do bức xạ, chống lão hóa của da, tăng tổng hợp, ức chế sự suy thoái của Collagen ở lớp trung bì và cải thiện nếp nhăn thô.
Vitamin A có thể gây kích ứng tại chỗ trên da. Đối với tất cả các dạng bôi, hiệu ứng kích ứng da là phụ thuộc vào liều. Những dạng Vitamin A này có thể gây ra một số tình trạng kích ứng với các biểu hiện đỏ, khô, bong tróc da, ban đỏ, ngứa, sưng, phù nề, phồng rộp ở các vị trí dùng thuốc.
Tác dụng của của Vitamin A tốt cho da, nhưng khi đối với việc sử dụng cũng cần chú ý bởi nó có thể gây kích ứng da
Hiện tại chưa có những nghiên cứu rõ ràng về sự tương quan giữa nồng độ và tác dụng phụ để xác định nồng độ an toàn cho việc sử dụng Vitamin A trong mỹ phẩm. Tuy nhiên các dữ liệu hiện có chấp nhận rằng tác động bất lợi khu trú trên da có thể xuất hiện sau khi sử dụng Vitamin A ở nồng độ ở khoảng 0,075% và cao hơn.
Các tác dụng phụ nói chung bao gồm:
- Làm mỏng biểu bì, tăng nhạy cảm và gây ra một số thương tổn nhất định trước và sau điều trị. Không nên sử dụng các biện pháp wax da hay điều trị bằng laser trong quá tình dùng isotretinoin và trong 5-6 tháng sau khi ngừng điều trị.
- Làn da có thể trở nên bị kích thích nếu sử dụng các chế phẩm uống và dùng tại chõ, tăng nhạy cảm với ánh sáng. Trong quá trình điều trị nên tránh phơi nhiễm với ánh sáng mặt trời.
- Hoạt chất có thể gây hại cho thai nhi. Nó cũng có thể làm tăng nguy cơ sẩy thai hoặc gây quái thai. Do đó, trong thời gian dùng thuốc không nên có thai
Cần chú ý sử dụng các biện pháp tránh thai ít nhất là 1 tháng sau khi ngừng điều trị
- Một số phản ứng không mong muốn thường gặp: đau lưng, các vấn đề về máu, viêm da, khô mắt, da khô, da mỏng manh có thể bị hỏng, viêm, nứt da của môi hoặc khô môi (nên sử dụng son dưỡng trong khi dùng thuốc), kích thích, viêm mắt hoặc mí mắt
Các loại thuốc trị mụn tại chỗ
- Adapalene, tazarotene, tretinoin, clindamycin, erythromycin: có thể gây ra tình trạng ngứa, bong tróc, đỏ da, khô da
- Azelaic acid: Giảm sắc tố, bỏng rộp, ngứa
- Benzoyl peroxide: khô da, ban đỏ
- Dapson: nhờn da, bong tróc, khô da, ngứa
- Salicylic acid: khô da, kích ứng tại chỗ
Tham khảo thêm: Hướng dẫn lăn kim trị mụn bằng tế bào gốc hiệu quả
Các loại thuốc trị mụn dùng bằng đường uống
- Kháng sinh nhóm marcolide
Gây kích ứng da dày
Tổng cộng có 20% đến 30% bệnh nhân dùng clindamycin uống có biểu hiện bị tiêu chảy. Clindamycin uống cũng có thể gây rối loạn vi khuẩn đường ruột, gây ra viêm đại tràng giả mạc.
- Kháng sinh nhóm cycline
Một vấn đề chung của nhóm thuốc này là có thể gây tăng nhạy cảm với ánh sáng, khó chịu đường tiêu hóa, rất hiếm khi gây viêm thực quản và viêm tụy
Rối loạn tiền đình, chóng mặt và hoa mắt, da có thể xuất hiện những vệt màu xanh-xám. Biểu hiện tăng sắc tố này có thể phân bố ở những vết sẹo do tiếp xúc ánh sáng phụ thuộc vào cường độ và thời gian tiếp xúc. Một số tác dụng phụ hiếm xảy ra khác là lupus ban đỏ, viêm mạch và suy gan
Nhóm kháng sinh Cycline trong điều trị mụn có thể gây rối loạn sắc tố trong điều trị
Tất cả các cylin đều cần phải được sử dụng một cách thận trọng trên những bệnh nhân bị bệnh thân do có thể làm tăng ure huyết
Ngoài ra, thuốc đã được báo cáo có khả năng ức chế tăng trưởng xương ở bào thai. Vì vậy, chúng không nên được sử dụng trên phụ nữ mang thai, đặc biệt là sau 4 tháng đầu thai kỳ, trẻ em dưới 9 tuổi trong điều trị mụn trứng cá.
- Kháng sinh ciprofloxacin và trimethoprim-sulfamethoxazole
Cũng có thể được sử dụng trong điều trị mụn trứng cá. Tác dụng phụ bao gồm thiếu máu, giảm tiểu cầu, mất bạch cầu hạt, phản ứng quá mẫn. Việc sử dụng loại thuốc này trong điều trị mụn còn nhiều tranh cãi và có ý kiến cho rằng chỉ nên sử dụng khi phác đồ điều trị khác không hiệu quả.
Phản ứng bất lợi khi sử dụng các loại thuốc chiết xuất từ dược liệu
Các phản ứng ngoài da phổ biển từ thảo dược là bệnh viêm da tiếp xúc dị ứng. Những dược liệu có thể gây ra tình trạng này bao gồm lô hội, cây họ cúc, hoa cúc, dầu trà tràm và cỏ thi. Những phản ứng nghiêm trọng hơn bao gồm viêm da tróc vảy và hội chứng Stevens-Johnson.
Tác dụng phụ toàn thân nghiêm trọng đã được báo cáo trong một số các liệu pháp thảo dược để điều trị các bệnh về da. Đa số là gây độc cho gan. Tuy nhiên, tác dụng phụ nguy hiểm lại rất hiếm gặp. Cần tây được biết đến có chứa psoralen một nhóm các chất gây phản ứng da khi tiếp xúc với tia UVA, làm tăng nguy cơ chảy máu hoặc làm tăng tác dụng điều trị warfarin. Gốc cần tây là một nguyên nhân thường gặp của dị ứng thực phẩm ở những bệnh nhân nhạy cảm.
Tìm hiểu thêm:
- Tất tần tật từ A –> Z về bệnh viêm da cơ địa bạn cần phải biết
- Bóc trần sự thật Thay da sinh học tại các spa, TMV
- Trợ Giá Sản Phẩm – Vượt Dịch Covid - 13/05/2021
- Bí quyết duy trì hoạt động kinh doanh spa trong mùa dịch - 31/03/2021
- Ưu Đãi Tưng Bừng – Mừng Ra Mắt Siêu Phẩm Trị Mụn Acne Spot Ampoule - 15/05/2020